Mẹ con tôi dắt díu nhau rời
Rừng Lăng (QN) để vào Nam theo bố tôi trên chuyến xe lửa chạy rì
rầm suốt hai ngày hai đêm, qua biết bao vùng đất vừa cằn cỗi vừa thơ mộng của "quê hương xứ dân gầy", một bên là Trường Sơn thăm thẳm trùng điệp, một bên là
cát trắng biển xanh mà đến nay tôi vẫn còn ghi rõ trong ký ức. Tàu đến ga Sài
Gòn lúc 3 giờ sáng. Mẹ con tôi phải nghỉ tạm ở ga trên những băng ghế dài,
chung quanh là lỉnh kỉnh hòm xiểng. Đến gần sáng thì thấy bố tôi đến đón bằng
chuyến xe Dogde quân đội để chở những đồ đạc gói ghém của mẹ tôi cho chuyến Nam
du, tôi nhớ thứ giá trị nhất là cái hòm gỗ to đùng, đánh verni vàng nhạt có
đai đồng, quai sắt mà bố tôi đặt đóng khi còn ở Quảng Ngãi, có lẽ trong đó chứa
đựng những thứ quan trọng của gia đình nên lúc nào mẹ tôi cũng khóa kỹ và bắt
anh em tôi ngồi lên trên nắp để không ai có thể cạy được. Riêng ít vàng chắt
chiu dành dụm bấy lâu, trước khi đi mẹ tôi đã cẩn thận khâu những cái dây lưng
nhỏ đựng những chiếc nhẫn vàng buộc lại với nhau bằng chỉ như sợi xích, khâu
kín hai đầu rồi đeo vào bên trong lưng quần của mẹ và tôi. Sợ chúng
tôi lạc trên tàu, mẹ bắt tôi nắn nót ghi họ tên từng đứa, cùng tên cha mẹ, đơn
vị đóng quân và KBC của bố lên giấy rồi nhét vào túi mỗi đứa. May mắn là chuyến
đi yên ổn, anh em tôi chẳng đứa nào lạc, còn điều lo sợ nhất là xe lửa bị mìn thì
cũng không xảy ra dù thời đó chuyện này xảy ra như cơm bữa.
Từ ga Sài Gòn chuyến xe
Dogde chạy thẳng về Lái Thiêu, ở đó bố tôi đã thuê sẵn một căn ở đầu dãy phố cổ
ngay trước cổng chi khu, chếch đối diện nhà tôi là ngôi biệt thự của gia đình
ông quận trưởng. Năm đó tôi vào học lớp ba trường quận, trường ở ngay cạnh nhà,
từ cửa sổ lớp học có thể nhìn sang khoảng sân đầu hồi nhà tôi với mấy cây nhãn
um tùm và cái giếng phía trước sân, gần cổng, dùng chung cả phố.
Thuở ấy có lẽ thiếu phòng học
nên trường tôi học 3 ca, lớp tôi phải học ca trưa từ 10 giờ rưỡi đến đến một
hai giờ chiều gì đó. Cả lớp đều buồn ngủ, thầy giáo già của chúng tôi cũng vậy,
có lẽ do buồn ngủ nên thầy hay cáu giận và phạt học trò bằng cây roi mây dài cả
thước. Cả lớp đứa nào cũng sợ, thế nhưng trẻ con chúng tôi cũng ma le lắm, biết
nhà thầy có bán cóc, ổi, chùm ruột dầm cam thảo và mía ghim ướp đá lạnh (miền
Trung không có những thứ này) nên cả lớp hay ghé mua để được thầy nhớ mặt mà
thương. Thỉnh thoảng những hôm hết bài sớm, thầy cũng kể chuyện cổ tích hay ra
câu đố vui cho cả lớp. Nhớ mãi câu đố của thầy “Lỗ đít có mấy khía?”. Nghe câu
đố buồn cười quá cả lớp lợi dụng đập bàn ghế la hét ỏm tỏi, rồi mỗi đứa trả lời
một kiểu, ai cũng cho mình đúng. Cuối cùng thầy bảo đứa nào nói mình đúng thì tụt
quần ra chổng mông lên đếm mới biết. Cả lớp lại một phen cười nghiêng ngả,
nhưng sau đó im thin thít, mấy đứa con gái thì chúi đầu vào vai nhau khúc
khích.
Lúc bấy giờ, chúng tôi gọi
hiệu trưởng là ông Đốc, cằm ông Đốc trường tôi có vệt chàm bằng đồng năm cắc có
hình ông Ngô Đình Điệm và bông lúa, trông ông nghiêm nghị và xa cách. Ông ở một
mình trong một căn nhà nhỏ có vườn hoa ở ngay trong khuôn viên trường, có lẽ là
nhà công vụ. Có lần tôi bị cấm túc và phải làm cỏ ở vườn hoa của trường sáng chủ
nhật, thì thấy ông Đốc đọc sách và thơ thẩn trong sân. Cả chục đứa đang lúi húi
nhổ cỏ không biết ông đến sau lưng lúc nào, khi nghe tiếng ông cả bọn giật
mình, đứng lên lấm lét. Ông hỏi vì sao mà bị cấm túc, chúng tôi mỗi đứa một kiểu,
đứa thì không thuộc bài, đứa đi học muộn, đứa đánh nhau… Ông lắng nghe rồi nhẹ
nhàng khuyên bảo nhắc nhở từng đứa. Giọng ông lúc đó thật hiền khác hẳn những
lúc ông nói chuyện dưới cờ hay mắng mỏ học sinh nào đó trong văn phòng. Từ hôm
đó tôi không thấy sợ ông Đốc nữa, nhưng vẫn thắc mắc mãi về vết chàm trên cằm
ông rồi thấy vết chàm đó làm ông sang trọng hẳn lên và tôi lại ước ao giá mình
cũng có được vết chàm như thế!
Lớp tôi học có con Hoa, nó
là dân Ba Tàu, nhà có tiệm buôn bán tạp hóa ở phố chợ, không hiểu sao nó thích
tôi dù tôi gầy gò ốm yếu lại có cái sẹo ở đầu chứ không phương phi béo tốt và
có cái rốn sâu hun hút như thằng Út, bạn cùng lớp gần nhà tôi [1] (ở
nhà ba mẹ nó gọi nó là Út Chót). Con Hoa tặng tôi cây bút máy Tatung, chắc
nó lấy trộm ở tiệm nhà nó, cây bút làm tôi sướng điên nhưng thằng Út Chót thì hậm
hực ra mặt. Ngày ấy cây bút Tatung là tài sản quá quý giá đối với lũ
học trò tiểu học mà chỉ những anh lớp Nhất mới thấy dùng còn đám lớp Ba chúng
tôi thì chưa mơ tới. Tôi dấu mẹ tôi nên chẳng dám dùng, cứ để trong cặp lâu lâu
lại lôi ra ngắm nghía, vuốt ve, rồi khẽ khàng kéo lên kéo xuống cái piston bơm
mực. Con Hoa hỏi tôi sao không lấy ra viết bài, tôi bảo chưa có mực, thế là hôm
sau nó lại tặng tôi lọ mực tím hiệu Queen, lần này thằng Út không biết nên
không hậm hực nữa.
Ít lâu sau có lẽ vì thiếu
phòng học nên lớp tôi phải chuyển sang học ở một gian trong đình thần cách trường
chính độ vài ba trăm mét. Học ở đây không vui như ở trường chính nhưng bù lại
là được học buổi sáng và cô giáo dạy, hình như thầy giáo già của chúng tôi đến
tuổi về hưu thì phải, thế là cả lớp thoát được nỗi ám ảnh cây roi mây của thầy.
Có lẽ nhờ lớp học ở đình, gần gũi các vị thành hoàng nên cô giáo rất hiền lại
vui tính. Không hiểu sao cô hay chòng tôi với con Hoa, tôi xấu hổ còn con Hoa lại
vui ra mặt. Có lẽ nó kể với cô là đã tặng tôi cây bút và lọ mực nên một hôm cô
hỏi tôi có tặng lại gì cho cái Hoa chưa, tôi nghệch mặt, chẳng biết nói gì. Cô
bảo con trai lịch sự là phải tặng lại quà cho bạn gái, nhất là khi mình đã nhận
quà của người ta. Tôi cảm thấy giận con Hoa vì đã mách lẻo với cô giáo nhưng
cũng thấy lòng mình đau khổ vì mang tiếng một kẻ chẳng lịch sự. Mấy trưa
liền tôi trằn trọc, suy nghĩ mãi mà không biết tặng lại nó cái gì vả lại tôi
cũng đâu nhiều tiền để mua quà tương xứng với cây bút Tatung. May sao mẹ
tôi vừa mua cho tôi đôi dép nhựa (bây giờ giờ gọi là dép Lào), chân tôi lại nhỏ
như chân con gái, vừa với chân con Hoa. Thế là một hôm, tôi mang dép cũ đi học
nhưng trong cặp dấu sẵn đôi dép mới gói trong giấy báo. Vào lớp, tôi dúi cho
con Hoa dưới hộc bàn. Con Hoa mở ra cười toe toét. Tôi thở phào nhẹ nhõm và bỗng
thấy mình lịch sự hơn bao giờ hết. Hôm sau mẹ tôi hỏi đôi dép mới đâu sao không
đi, tôi đã chuẩn bị kỹ nên nói dối leo lẻo rằng bị mất khi về tập thể dục ở trường
chính. Mẹ tôi mắng cho một trận về tội lơ đễnh nhưng rồi cũng êm xuôi cả (mẹ
tôi quên rằng những ngày có học thể dục bọn tôi phải đi giầy bata). Nhưng bi kịch
xảy ra là hôm sau con Hoa mang dép mới đi học và khoe với bọn trong lớp. Thằng
Út biết chuyện liền về mách mẹ tôi, thế là mọi chuyện đổ bể. Thật lạ là mẹ tôi
không la mắng mà lại cười vui và hỏi tôi bao giờ dắt cô con dâu về cho mẹ xem mắt.
Tôi ngượng ngùng ấp úng, nhưng rồi cũng kể hết mọi chuyện với mẹ, vì không kể
thì thằng Út xấu tính kia cũng sẽ mách lẻo hết thôi. Hôm sau mẹ tôi ra chợ mua
lại cho tôi đôi dép khác y hệt đôi dép tôi đã tặng cái Hoa, thế là chúng tôi đi
học với hai đôi dép giống nhau, bây giờ người ta gọi đó là dép tình nhân?
Tôi không nhớ chuyện tình
tôi và con Hoa đi đến đâu, ngoài những chuyện chơi đùa bông phèng ở lớp hay rủ
nhau cùng đi bắt cá lia thia dưới những con mương trong khu vườn nhãn, vườn
măng cụt nhà lũ bạn cùng lớp hay rủ nhau cùng đi cầu cá sau giờ tan học mãi bên
kia cầu Tân Lạc (Ở Lái Thiêu, ngày đó có 2 câu cầu gắn liền với hai rạp hát là
Tân Lạc và Phương Lạc ở mỗi đầu cầu nên mọi người lấy tên rạp hát để gọi luôn
tên cầu). Một hôm tôi và nó rủ nhau đi cầu cá, nó xong trước, lên bờ đứng chờ
tôi, buồn chân, nó lấy dép phủi sỏi xuống ao chọc lũ cá tra, không hiểu sao làm
văng cả chiếc dép xuống ao cá, báo hại tôi và nó phải ngồi cả buổi để nhờ anh
thằng bạn gần đó quăng dây móc lên và còn bị ông chủ cầu cá chửi cho một trận,
dọa không cho đi ở đây nữa.
Lái Thiêu là thủ phủ của đồ
gốm, đi chỗ nào cũng gặp lò gốm, rồi những đống đồ gốm bị loại vì lỗi đổ khắp
nơi, thấy bọn con gái hay mang về chơi đồ hàng, tôi cũng khuân về một đống chất
ở góc vườn cho con H em gái tôi. Đặc biệt đất sét là thứ mà bọn tôi rất thích
nghịch. Tôi lại có biệt tài làm những con vật nhỏ bằng đất sét rồi tô màu rất
được lũ bạn hâm mộ. Những buổi trưa trốn ngủ, tôi lẻn ra khỏi nhà sang các lò gốm
xin đất sét đem về ngồi tỉ mẩn nặn những con vịt, con trâu, con cá… sau đó cắt
đôi, khoét ruột, chọc lỗ rồi hàn hai nửa thân lại, đem phơi khô, tô màu. Những
con vật do tôi làm trông rất sống động và thổi kêu rất to, tôi dùng làm quà tặng
mấy đứa bạn thân thiết. Riêng con Hoa tôi đã tặng gần chục con khác nhau, đủ
màu sặc sỡ, còn thằng Ch, con H em tôi thì suốt ngày thổi toe toe khiến mẹ tôi
phát bực.
Cùng dãy phố với nhà tôi có
thím người Huế mới theo chồng chuyển vô Nam, chồng cũng đi lính ở chi khu
với bố tôi, thím có con còn nhỏ ẵm trên tay. Thím hay qua nhà chơi với mẹ tôi
những khi rỗi rãi rồi hỏi han những chuyện mà một người phụ nữ từ Huế mới vào
còn cảm thấy xa lạ bỡ ngỡ. Một buổi thím đi chợ về, mang cá ra ngoài giếng ngồi
làm, vừa làm thím vừa khen mấy con cá mua được bụng đầy trứng. Lát sau nghe tiếng
thím la oe óe bên nhà và cái nồi cá bay ra ngoài bờ rào gần giếng. Mẹ tôi chạy
vội ra thì biết thím mua cá tra nhưng ác quá, người bán cá chưa nhốt đủ ngày để
tiêu hết phân trong bụng, thím cứ ngỡ đó là trứng nên khen rối rít, đến khi đem
kho, bốc mùi mới biết. Quẳng nồi cá xong thím ôm ngực ngồi nôn ọe cả buổi. Thế
nhưng sáng hôm sau khi ra giếng thấy cái nồi vẫn còn đó, chỉ có cá là hết sạch,
có lẽ chó đã ăn hết, thì thím mừng rỡ nhặt lấy chiếc nồi, miệng lẩm bẩm: “Ụa
chà chà, Ụa chà chà , sổ tui chưa mật của, may ghê nì, may ghê nì” rồi lấy cát
chùi rửa sạch sẽ mang vào nhà. Cả dãy phố được một phen cười vỡ bụng.
Lúc này tôi có nuôi một con
nhòng đen, mỏ đỏ, rất thích ăn ớt. Tôi nuôi từ nhỏ nên nó tỏ ra quấn quít và
không bay xa, những lúc ở nhà tôi thường thả cho nó đi quanh quẩn trong nhà,
khi thì nó bay lên cửa sổ, khi bay ra hàng rào, khi lại quanh quẩn xuống bếp
theo chân mẹ tôi hay con em gái. Tôi rất thương nó, đi chơi đâu cũng mang theo
và cho nó đậu trên vai. Đến nhà thằng Út Chót nó thấy chậu mai tứ quý có đài
hoa màu đỏ, tưởng ớt nó nhảy lên vặt ăn trụi lủi. Tôi và đám bạn hay đi ra bờ
rào chi khu bắt cào cào, chuồn chuồn cho nó ăn rồi dạy nó tập nói. Tiếng đầu
tiên tôi tập cho nó gọi là tên tôi. Nhưng tên tôi chưa kịp nói sõi thì nó đã chết.
Chẳng hiểu vì sao? Sau một đêm mưa, sáng ra tôi thấy nó gục chết trong chuồng,
thân thể cứng đờ. Tôi khóc nhiều vì thương nó, cả con H em tôi cũng khóc, chỉ
có thằng Ch là đòi vặt lông làm thịt. Tôi lấy một cái hộp giấy cứng đặt xác con
chim vào, rồi đào lỗ sau nhà chôn và đắp cho nó một nấm mộ nhỏ. Tôi cũng lấy đất
sét nặn một cái bia rồi ghi chữ “Nhòng” lên đó, đặt trước mộ. Nghe tôi kể chuyện
này, con Hoa bảo tối tối phải thắp nhang trên mộ chim. Sau này khi nhà tôi ở
Long Khánh bố tôi mua lại cho tôi một con nhòng khác, nhưng vì là nhòng đã lớn
lại hoang dã nên không dạy được, nó không biết nghe lời. Đến khi nhà tôi rời
LK, tôi đã đem ra bán ở bến xe, bên khu rừng cao su, hình như được hai đồng bạc
thì phải.
Nhà tôi, nhìn qua bên kia đường
là cổng Chi khu Lái Thiêu, bố tôi làm việc ở đây nên anh em chúng tôi "được
quyền" ra vào như nhà mình, chỗ nào cũng vào được kể cả kho quân tiếp vụ,
chỉ trừ mấy căn phòng có ghi hàng chữ “Bí mật quân sự, lộ bí mật tử hình” mà
lúc nào cũng khép kín cửa. Mấy chú lính gác cổng thì chú nào tôi chẳng quen,
hơn nữa nhà tôi ngay cổng trại, tháng nào mà mấy chú chẳng mang khẩu phần quân
tiếp vụ sang bán cho mẹ tôi. Trong số đó có chú Toản, dân Sài Gòn đi quân dịch,
bọn tôi đứa nào cũng thích chú vì chú biết đàn lại hay kể chuyện cho chúng tôi
nghe. Những tối không có ca trực thể nào chú cũng ôm cây đàn mandolin nhỏ tẹo
ra ngồi ngay vỉa hè chờ chúng tôi, rồi đàn hát và kể chuyện ngay dưới ngọn đèn
đường. Những tối có mưa, trời vừa tạnh, chú lại cùng bọn tôi cầm đèn pin lao ra
đường bắt dế cơm và cà cuống (tinh dầu cà cuống thơm lừng mà dằm nước mắm ăn với
bánh cuốn thì phải biết, còn dế cơm ngắt đầu, nhét hạt đậu phộng vào bụng, lăn
bột chiên thì hết ý). Chú chơi với cả bọn nhưng chiều nhất thằng Út, vì nó có
chị gái, chị nó là chị Đức đang học đệ ngũ, đệ tứ gì đó thì xin nghỉ, ở nhà làm
thợ may, chú Toản lại thích mê thích mệt chị thằng Út và hay viết thư cho chị
nó. Những tối đi bắt dế cơm, cà cuống, được bao nhiêu chú cũng bỏ hết vào hộp
guigoz đưa cả cho thằng Út mang về làm đồ nhậu cho cha nó. Nói thật là tôi rất
đau khổ vì thua thằng Út khoản này, tôi không có chị gái để được chú Toản yêu
chiều, tôi chỉ có em gái, mà con H, em gái tôi thì lại quá nhỏ đang học ký nhi
viện nên chú Toản chẳng thèm để ý đến, vả lại nó cũng còn hay đái dầm nữa.
Nhưng dù sao tôi cũng may mắn hơn nhiều đứa khác vì đã mấy lần được chú giao trọng
trách đưa thư cho chị Đức. Mỗi lần đưa thư tôi lại nhìn thẳng vào mặt chị Đức,
để thấy mặt chị bèn bẹt, tròn xoay, có cái mụn ruồi trên má, tóc ngắn cũn cỡn
chẳng xinh bằng con Hoa. Tôi nghĩ bụng mình mà là chú Toản thì chẳng bao giờ
mình viết thư cho chị Đức.
Nhưng thật không ngờ chuyện
của chú Toản và chị Đức lại có một kết cục khủng khiếp làm xôn xao cả quận lúc
bấy giờ. Ngày ấy chúng tôi còn nhỏ quá nên không thể hiểu hết ngọn ngành, chỉ
nhớ vào một tối, cũng sau một cơn mưa, chúng tôi lại lao ra tìm dế và cà cuống.
Hôm ấy chú Toản phải gác không ra được với chúng tôi. Cả bọn mê mải tìm dế và
cà cuống cho đến khi chị Đức bước ra ngõ (nhà thằng Út trong hẽm gần dãy phố
nhà tôi) đứng gọi thằng Út Chót về thì xảy ra chuyện. Cũng phải nói thêm Chi
khu Lái Thiêu ngày ấy có nhiều bót gác chung quanh đồn, trong đó có 3 bốt gác nằm
sát con đường nhà tôi. Bót cuối cùng nằm ở góc cuối đường đâu lưng với Trại
Quân cụ, vuông góc với con đường dắt qua rạp hát Tân Lạc, bốt gác này cách ngõ
vào nhà thằng Út độ năm chục mét. Tối ấy chú Toản gác ở bót cuối cùng, sát đường
và khi thấy chị Đức ra gọi thằng Út thì chú bắn chị, thấy chị gục xuống, tưởng
chị chết, chú kê súng lên cằm tự sát, chết tại chỗ. Bọn trẻ chúng tôi nghe tiếng
súng, lại thấy chị Đức ngã xuống thì hoảng hốt bỏ chạy. Cả phố náo động, người
lớn túa ra đường tìm con cái, tiếng la hét hoảng loạn hòa trong tiếng còi báo động
rúc lên ngay lúc đó. Mẹ tôi lúc này mới sinh thằng M, em trai tôi, đầu còn trùm
khăn cũng chạy ra lôi tôi vào nhà đóng kín cửa. Lát sau bố tôi về thì thầm với
mẹ, tôi mới lõm bõm biết chú Toản thất tình gì đó nên muốn cùng chết với chị Đức,
để cả hai hóa thành đôi bướm trắng cùng nhởn nhơ hạnh phúc nơi thiên đường như
Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài trong tuồng cải lương. Nhưng chị Đức không chết, chị
chỉ bị đạn sượt qua vai, vào nhà thương vài hôm rồi về, nhưng chị khóc rất nhiều
sau chuyện đó. Tôi hỏi thằng Út nhưng nó nói chẳng biết gì, tôi tin nó nói thật
vì nó đã có bạn gái như tôi đâu mà biết gì về chuyện tình cảm. Có lẽ đó là sự
kiện chấn động đầu tiên kể từ khi tôi về Lái Thiêu và trở thành đề tài bàn tán
sôi nổi của nhiều người dân ở đây một thời gian dài sau đó. Và câu chuyện tình
đau thương này chỉ tạm lắng xuống khi có sự kiện thứ hai to lớn xảy ra.
Một buổi sáng tháng 11 năm
1963, tôi được bố cho nghỉ học và hai bố con bắt taxi con cóc lên Sài gòn để
mua một cái radio mới và định sau đó sẽ ghé qua Gò Vấp thăm gia đình bác Hiệu
(vào Nam sau gia đình tôi một năm). Dọc đường thấy chuyện lạ là sao đường phố
Sài gòn chỗ nào cũng có lính đứng gác, có những con đường toàn quân cảnh Mỹ mặc
quân phục trắng bồng súng đứng nghiêm nghị. Rồi những hàng quán hai bên đường hầu
hết đều đóng cửa im ỉm dù lúc này đã hơn 7g sáng, đến tiệm bán radio cũng vậy,
cửa sắt kéo kín mít. Bố tôi quen một tiệm nên bấm chuông gọi, ông chủ tiệm mở cửa
kéo bố con tôi vào rồi sập cửa lại ngay. Ông chủ thì thầm hình như có đảo chính
gì đó. Bố tôi lo lắng vì bỏ doanh trại lúc này là vi phạm quân lệnh, và hôm nay
lại mới thứ sáu. Thấy tình hình không ổn, bố tôi vội vàng chọn cái radio hiệu
Philips 3 band có bao da mà ông chủ tiệm khen là tốt nhất rồi lên taxi trở về,
bỏ dự định ghé Gò Vấp. Dọc đường bật cái radio mới, dò đài phát thanh Sài gòn
nhưng toàn nghe chương trình ca nhạc, thỉnh thoảng lại bị đứt quãng chỉ nghe tiếng
rè rè hay khọt khẹt mà không thấy tin tức gì cả. Về gần tới Lái Thiêu thì thấy
những chiếc xe tàu bò bọc thép, xe GMC chở đầy lính với đầy đủ súng ống, lá ngụy
trang và cả những chiếc xe chở đầy quân khuyển (chó đánh trận) đi ngược lại, hướng
về phía Sài gòn. Bố tôi biết có biến thật rồi. Về đến nhà ông thay ngay quân phục
chạy vội vào doanh trại chi khu. Mãi đến chiều qua đài phát thanh quốc gia Sài
Gòn mọi người mới biết đích xác là có đảo chính và lệnh giới nghiêm toàn quốc,
hôm ấy là ngày 1 tháng 11 năm 1963. Cuộc đảo chính này do các tướng quân đội tổ
chức mà cầm đầu là tướng Dương Văn Minh, họ đã bắt và giết chết ông Tổng thống
Ngô Đình Diệm và ông Cố vấn Ngô Đình Nhu vào ngay sáng ngày hôm sau (lúc đó họ
bảo hai ông này tự sát). Sự kiện thứ hai này tuy to lớn cấp quốc gia, đánh dấu
sự sụp đổ của nền đệ nhất cộng hòa sau gần chục năm tồn tại và được ghi vào
sách lịch sử hẳn hoi, nhưng bọn trẻ con chúng tôi không để tâm nhiều, chỉ biết
rằng từ nay khi xem xi-nê sẽ không còn phải đứng lên suy tôn Ngô Tổng thống trước
khi vào phim nữa, còn mẹ tôi, người luôn bị ám ảnh bởi ngày lễ Phật đản bị đàn
áp ở Quảng Ngãi và hình ảnh tự thiêu của nhà sư Thích Quảng Đức trước đó, thì bảo
sẽ không còn cảnh đàn áp Phật giáo, chùa chiền từ nay sẽ được yên ổn…
La Ngà
Tôi lên lớp Nhì, học ở Lái
Thiêu được vài tháng thì bố tôi chuyển về La Ngà, Định Quán (lúc bấy giờ còn
thuộc tiểu khu Long Khánh), doanh trại nằm ngay dưới chân cây cầu sắt sừng sững
bắc qua dòng sông La Ngà cuồn cuộn chảy. Bên kia đường là những cột điện cao thế
hùng vĩ có hàng rào bao bọc và gắn bảng nguy hiểm chết người với hình cái đầu
lâu. Cột điện này nằm gần một con suối nước trong vắt, lòng suối đầy đá cuội và
là nơi người lớn hay giặt giũ trên những phiến đá to, phẳng lì còn bọn trẻ con
chúng tôi thì tắm, bắt cá và đùa nghịch.
Ở La Ngà, trường tôi học là
một dãy nhà ba gian làm bằng gỗ lợp tole nằm trên một ngọn đồi nhỏ, cạnh ngôi
nhà thờ cũng bằng gỗ, sát quốc lộ 20 đi Đà Lạt. Tuy chuyển trường đến nhưng thầy
giáo vẫn bắt tôi phải làm bài khảo sát trước khi cho vào học chính thức. Tôi nhớ
thầy bắt tôi làm toán, tập làm văn và vẽ hình chai xá xị có tô màu. Ngày hôm
sau tôi được nhập học. Lớp Nhì của tôi có độ hai chục đứa, chỉ dăm đứa là con
lính còn hầu hết là có cha mẹ làm vườn quanh đó. Bố tôi muốn tôi phải đứng đầu
cái đám trẻ "rừng rú" này nên nhờ một chú lính biết nghề thợ mộc đóng
cho một cái bảng, sơn đen hẳn hoi và mua quyển “365 bài toán đố” về kèm cặp,
sau đó lại nhờ mấy chú lính có bằng trung học trong đồn ra kèm thêm mỗi tuần mấy
buổi. Tôi không ấn tượng lắm về trường học ở đây nên chẳng nhớ đứa nào, có lẽ
vì phải xa con Hoa nên tôi buồn và phớt lờ tất cả. Chỉ ấn tượng nhất là dòng
sông La Ngà chảy ầm ầm đêm ngày, giữa giòng có những phiến đá to, nước đập vào
tung bọt trắng xóa và cây cầu sắt cũ kỹ xây từ hồi Pháp thuộc có những hàng lò
xo khổng lồ làm bệ đỡ bên dưới mỗi nhịp khiến chiếc cầu rung lên bần bật mỗi
khi có xe tải hay xe be chở gỗ đi qua. Ở La Ngà, bố tôi thân với chú lính người
Nùng, tên Minh, săn bắn rất giỏi, thế nên nhà tôi thường xuyên được ăn thịt rừng,
khi thì nai, mễn, khi thì heo rừng. Chú Minh ở ngay trong đồn một mình,
hiền, ít nói, lúc rãnh rỗi chỉ biết lấy cây súng săn ra lau chùi và ngắm nghía,
chú hay dắt tôi vào bìa rừng chỉ cách ngắm bắn súng, cách nhìn mắt thú ban đêm
và đặt bẫy gà rừng, nhưng tôi không tha thiết lắm, với tôi rừng đầy nguy hiểm
và bất trắc không phải chỗ dành cho tôi, chỉ có dòng suối bên kia đường là bình
yên và dịu dàng, nơi tôi và lũ em hay lẽo đẽo theo mẹ đi giặt rồi ngâm mình dưới
dòng suối mát lạnh hay tha thẩn dọc ven suối để tìm những hòn sỏi đẹp làm đá kỳ
cho mẹ tôi.
Mùa nắng sông La Ngà khá hiền
hòa và trong vắt, nhưng mùa mưa, nước đầu nguồn từ cao nguyên Di Linh đổ về,
dòng sông dâng cao, mênh mông, dữ tợn nhận chìm tất cả những tảng đá giữa dòng.
Những lúc này không còn thấy nước tung bọt trắng xóa, chỉ thấy dòng nước đục ngầu,
đặc quánh phù sa, gầm gừ chảy cùng những xoáy nước hun hút như những con mắt của thủy
quái, phô bày sự hiểm ác và sức mạnh ghê gớm của nó. Mọi người
không ai dám xuống bến, trẻ con thì bị cấm chỉ tuyệt đối.
Một buổi chiều khi nắng đang
nhạt dần, tôi với mấy đứa em đứng thơ thẩn ở sân nhà nhìn xuống bến sông, bỗng
tôi thấy chấp chới một hình ảnh giống như một đầu người đang chới với giữa
giòng nước cuồn cuộn, tôi hoảng sợ vì nghĩ có người chết đuối vội vàng chạy vào
gọi mọi người. Bố tôi và mấy người hàng xóm chạy ra, nhưng không ai nhìn thấy
gì cả, bố tôi lại chạy lên cầu, hỏi mấy chú lính gác dưới gầm cầu cũng chẳng ai
thấy gì, mọi người bảo tôi trông gà hóa cuốc, tôi cũng mong mình nhầm lẫn,
nhưng hình ảnh đó cứ ám ảnh tôi mãi đến sau này.
(còn nữa)